Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, làm thay đổi vòng tuần hoàn nước trong tự nhiên dẫn đến các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra thường xuyên và khó dự đoán, đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn tài nguyên nước mặt và nước ngầm ở nước ta.
Nguồn ảnh: https://baochinhphu.vn/du-thao-luat-tai-nguyen-nuoc-sua-doi-102220920163414111.htm
 
Nước ta có 108 lưu vực sông với khoảng 3.450 sông, suối tương đối lớn. Tổng lượng dòng chảy hằng năm khoảng 844 tỷ mét khối, chủ yếu tập trung vào mùa mưa (từ 3 đến 5 tháng), mùa khô (từ 7-9 tháng) chỉ chiếm từ 20% đến 30% lượng dòng chảy năm. Lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam khoảng 504 tỷ mét khối, chiếm 60% tổng lượng dòng chảy của các sông của nước ta, cụ thể: Đồng bằng sông Cửu Long có tới 95% tổng lượng nước là từ nước ngoài (Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia) chảy vào lưu vực sông Hồng-Thái Bình có gần 40% tổng lượng nước là từ Trung Quốc. Trong khi đó, chỉ có khoảng từ 310 tỉ m3 đến 320 tỉ m3 được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam.
 
Lượng nước bình quân đầu người trên 9.000 m3/năm. Nước dưới đất cũng có tổng trữ lượng tiềm năng khoảng 63 tỉ m3/năm, phân bố ở 26 đơn vị chứa nước lớn, nhưng tập trung chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và khu vực Tây Nguyên. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên nước của Việt Nam chỉ ở mức trung bình của thế giới, trong khi môi trường nước các lưu vực sông đang đứng trước sức ép rất lớn bởi nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất và dân sinh ngày một tăng.  
 
Báo cáo của Tổ chức Germanwatch về chỉ số rủi ro khí hậu dài hạn 2019, Việt Nam nằm trong nhóm 10 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ những hiện tượng thời tiết cực đoan do BĐKH. Khoảng hơn 20% dân cư chưa được tiếp cận nguồn nước sạch (khoảng 17,2 triệu người đang sử dụng nguồn nước sinh hoạt từ giếng khoan, chưa được kiểm nghiệm hay qua xử lý) trung bình mỗi năm có khoảng 9.000 người tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém có gần 200.000 người mắc bệnh ung thư mới phát hiện, mà một trong những nguyên nhân chính bắt nguồn từ ô nhiễm môi trường nước. Lượng nước mặt bình quân đầu người mỗi năm chỉ đạt 3.840m3, thấp hơn chỉ tiêu 4.000m3/người/năm của Hội Tài nguyên Nước quốc tế (IWRA) 30% người dân chưa nhận thức được tầm quan trọng của nước sạch nguồn nước ngầm đang đối mặt với vấn đề ô nhiễm do bị xâm nhập mặn, ô nhiễm vi sinh, ô nhiễm kim loại nặng nghiêm trọng hầu hết đô thị lớn đều bị ô nhiễm nước ngầm do tốc độ đô thị hóa... 
 
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, quá trình đô thị hóa nhanh, các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp gia tăng kéo theo các hoạt động xả nước thải, nhất là nước thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn xả vào nguồn nước đã và đang tác động đến số lượng và chất lượng nguồn nước các sông, suối.
 
Một số khu vực, nước dưới đất có nguy cơ ô nhiễm chất arsen cao, nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng (có 792 xã) và đồng bằng sông Cửu Long (229 xã), vùng Bắc Trung bộ (155 xã). Nguồn nước ở hầu hết khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề đều đã bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng (như lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai, sông Sài Gòn) do nước thải từ các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, đô thị không được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn xả vào nguồn nước.
 
Biến đổi khí hậu tác động trực tiếp và sâu sắc đến tài nguyên nước Việt Nam, làm thay đổi vòng tuần hoàn nước trong tự nhiên, từ đó gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan, làm giảm chất lượng nước, suy thoái nguồn nước, gia tăng xâm nhập mặn và nước biển dâng. Dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn đến sớm và nghiêm trọng hơn tại các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ví dụ, mùa khô năm 2019-2020, xâm nhập mặn đã ảnh hưởng đến 10 trong số 13 tỉnh, thành phố đồng bằng sông Cửu Long với phạm vi ảnh hưởng của xâm nhập mặn là 1.688.600 ha (chiếm 42,5% diện tích tự nhiên toàn vùng).
 
Theo đó, vụ đông xuân 2019-2020, ở đồng bằng sông Cửu Long có 6 tỉnh, gồm: Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang và Cà Mau đều bị ảnh hưởng của hạn, xâm nhập mặn với tổng diện tích khoảng 41.900ha, trong đó, có 26.000ha thiệt hại mất trắng và Trà Vinh là tỉnh có diện tích thiệt hại nhiều nhất với 14.300ha&hellipBiến đổi khí hậu không chỉ tác động tiêu cực đến các vùng đất thấp, khu vực cửa sông ven biển mà các địa phương miền núi phía bắc cũng đang phải đối mặt với tình trạng xói lở đất nghiêm trọng, gây ra thiệt hại lớn về người và của.
 
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cho biết: Tại Việt Nam, biến đổi khí hậu đang tác động mạnh đến tài nguyên nước, gây ra nhiều hệ lụy như hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước&hellip các bộ, ngành, địa phương thời gian qua đã đưa ra nhiều giải pháp như tích trữ nước, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để thích ứng với tình hình thực tế. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những giải pháp trước mắt và tạm thời, mà không thể giải quyết lâu dài trước tác động của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng.
 
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là cần có một chiến lược quản lý nguồn nước an toàn và hiệu quả. Chiến lược đó phải hướng tới mục tiêu tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý tài nguyên nước tiến tới ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt bảo đảm khai thác, bảo vệ hiệu quả các nguồn nước, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn.
 
Do vậy, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý, bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tài nguyên nước. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tập trung triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách quản lý đã được thể chế hóa trong Luật Tài nguyên nước 2012 và các văn bản đã được ban hành xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước và cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu về quản lý tài nguyên nước giữa Trung ương và địa phương bảo đảm sử dụng nước bền vững, đáp ứng các nhu cầu sử dụng nước cho phát triển kinh tế-xã hội, thích ứng với biến đổi khí hậu thiết thực và hiệu quả&hellip
 
Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp các bộ, ngành có liên quan, địa phương cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ các chất thải ra môi trường, nhất là nước thải xả vào nguồn nước phải đạt quy chuẩn chất lượng nước phù hợp với chức năng của nguồn nước nâng cao năng lực ứng phó tác động biến đổi khí hậu và các rủi ro khác liên quan đến tài nguyên nước xây dựng và duy trì hệ thống cảnh báo, dự báo lũ, lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng và các tác hại khác do nước gây ra trên phạm vi cả nước.