| 
	Bài viết của PGS TS Vũ Thanh Ca, giảng viên cao cấp của ĐH Tài Nguyên và môi trường. Bài viết cung cấp cho độc giả các kiến thức phổ thông, cơ bản, dễ hiểu về ảnh hưởng của các hồ chứa thuỷ điện, thuỷ lợi, rừng đối với lũ lụt, sạt lở đất. Xin chia sẻ để người đọc tham khảo.
 *****************
	
	
	Thủy điện có gây thêm lũ?
  
	  
	Lũ lụt miền Trung nước ta đang gây ra những thiệt hại rất lớn về người và của. Cả nước đang đóng góp, chia sẻ, cùng đồng bào miền Trung vượt qua những thời điểm đau thương, khó khăn này. 
	Trong thời gian vừa qua có rất nhiều ý kiến cho rằng xả lũ của thủy điện là nguyên nhân gây lũ chồng lũ, làm gia tăng ngập lụt, kéo theo đó là những thiệt hại về người và của. Có đúng như vậy không? 
	Là một người từng có 6 năm dạy môn Kỹ thuật môi trường sông ở Đại học Saitama, Nhật Bản và nằm trong nhóm chuyên gia quản lý các hồ chứa khu vực Kanto của Nhật Bản, cũng như bản thân đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này, tôi muốn đóng góp ý kiến để làm sang tỏ vấn đề “thủy điện có gây thêm lũ?”. 
	Năm 2010, Nhóm Công tác châu Âu về đập và lũ lụt đã xuất bản một báo cáo đánh giá khả năng giảm nhẹ lũ lụt của đập và trên cơ sở tính toán về mức độ giảm nhẹ lũ lụt của tất cả các nước châu Âu (https://cnpgb.apambiente.pt/.../EWG%20FLOODS%20FINAL...) đã thấy đập (cả thủy điện, thủy lợi và cấp nước) đã giúp giảm nhẹ lũ lụt ở tất cả các nước châu Âu. Tuy nhiên, mức độ giảm nhẹ lũ tùy thuộc vào dung tích hồ và quá trình vận hành hồ. Các hồ lớn, dự báo tốt để có thể xả nước trước khi lũ lụt sẽ giúp giảm rất nhiều lũ lụt ở hạ du, trong khi các hồ nhỏ thì hầu như không có khả năng giảm lũ lụt. 
	Việt Nam ta đã xây dựng nhiều hồ thủy điện, đặc biệt là trong những năm gần đây. Cùng với việc xây dựng các hồ thủy điện là việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chuẩn xây dựng cũng như vận hành các hồ chứa. Đặc biệt, Luật Thủy lợi và Nghị định số 114/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước đã quy định về lập, phê duyệt, công khai và thực hiện quy trình vận hành hồ chứa trong trường hợp có lũ, như là trường hợp khẩn cấp. Trong đó, Luật thủy lợi quy định trong quá trình thi công, chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước có trách nhiệm lập phương án ứng phó thiên tai cho công trình, vùng hạ du đập trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện. Chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước cũng có trách nhiệm lập quy trình vận hành hồ chứa, phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước khi tích nước và bàn giao cho tổ chức, cá nhân khai thác, cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, phòng, chống thiên tai. 
	Các hồ thủy điện ở Việt Nam được vận hành theo các quy trình được xây dựng theo chuẩn quốc tế. Nói chung, quy trình xả lũ của đập thủy điện do các chủ đầu tư xây dựng, trình phê duyệt có các thông số kỹ thuật khác nhau, nhưng có các điểm chính như sau. 
	Khi mưa về, hồ xả nước tới mức “đón lũ”. Gần đây, mức đón lũ được giảm xuống, tùy vào hồ có chức năng điều tiết lũ hay không. 
	Mưa vẫn lớn, lượng nước về hồ khá lớn nước trong hồ dâng lên vượt một mức nào đó (ngưỡng thứ nhất, gọi là ngưỡng xả), hồ bắt đầu xả nước để giảm tốc độ nước dâng trong hồ. Lưu lượng xả nước tăng theo mực nước trong hồ. 
	Khi mực nước trong hồ đạt tới ngưỡng thứ 2, hồ xả nước với lưu lượng bằng lưu lượng nước về hồ. Lúc đó có thủy điện hay không có thủy điện lượng nước về hạ lưu vẫn thế, hay nói cách khác là Khi đó, có hồ cũng như không. Thủy điện không xả quá lượng nước về vì nó vẫn cần tích nước phục vụ phát điện. Nước trong hồ là tài sản của nó, là tiền nên các nhà quản lý thủy điện không xả bừa bãi để gây ngập lụt ở hạ du. 
	Các hồ thủy điện nhỏ ở Việt Nam nói chung không có chức năng điều tiết lũ nên mức đón lũ của nó rất nhỏ, khoảng 4 m thấp hơn mức nước mà nó xả nhiều nhất, tức lưu lượng xả lũ đúng bằng lưu lượng nước vào hồ. Cần chú ý rằng hồ khi lũ về thì hồ không cần xả với lưu lượng lớn hơn lưu lượng nước chảy vào hồ, vì chỉ cần xả với lưu lượng đúng bằng lưu lượng nước vào hồ thì mực nước trong hồ sẽ không tăng lên, và đập thủy điện sẽ an toàn. Như vậy, mặc dù không có chức năng điều tiết lũ lụt, các hồ thủy điện nhỏ vẫn tích được ít nhất một lượng nước có chiều cao 4m và diện tích bằng diện tích mặt hồ. Điều này phù hợp với nội dung báo cáo của châu Âu được dẫn ở trên. 
	Hiện nay, tất cả các hồ chứa của Việt Nam đều có chế độ vận hành, trong đó có chế độ quan trắc mực nước và từ đó tính ra lưu lượng nước xả khỏi hồ khi có lũ tuân thủ Nghị định số 114/2018/NĐ-CP và một số nghị định khác sửa đổi nghị định này. Cụ thể: 
	- Đập, hồ chứa nước có cửa van điều tiết lũ và đập, hồ chứa nước quan trọng đặc biệt, lớn có tràn tự do: Cung cấp thông tin, dữ liệu quan trắc khí tượng thủy văn cho chủ quản lý đập, hồ chứa nước cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, thủy điện, cơ quan phòng chống thiên tai các cấp nơi có đập, hồ chứa nước, vùng hạ du đập Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Công Thương theo phạm vi quản lý của bộ Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia trong tình huống khẩn cấp 
	- Đập, hồ chứa nước vừa và nhỏ có tràn tự do: Cung cấp thông tin, dữ liệu quan trắc khí tượng thủy văn cho chủ quản lý đập, hồ chứa nước, cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, thủy điện, cơ quan phòng chống thiên tai các cấp nơi có đập, hồ chứa nước, vùng hạ du đập. 
	- Việc cung cấp thông tin, báo cáo được thực hiện theo một trong các hình thức sau: Gửi trực tiếp, bằng fax, bằng mạng vi tính, qua điện thoại, bằng máy thông tin vô tuyến điện (ICOM) hoặc các hình thức khác 
	- Văn bản gốc phải được gửi đến chủ sở hữu, chủ quản lý để theo dõi và lưu trữ hồ sơ quản lý. 
	Như vậy, nếu mực nước hồ tăng lên khi lũ về thì có nghĩa là hồ chứa đang xả ít hơn lượng nước về và hồ và do vậy hồ vẫn đang điều tiết lũ. Nếu mực nước hồ không thay đổi thì hồ đang vận hành kiểu tràn, có nghĩa là lưu lượng nước về hồ bao nhiêu thì hồ xả bấy nhiêu và hồ không còn điều tiết lũ. Nếu mực nước trong hồ giảm đi khi lũ đang về thì có nghĩa là hồ đang xả nhiều hơn lưu lượng nước về và gây ra hiện tượng “lũ chồng lũ”. Trong trường hợp này, tùy theo mức độ vi phạm mà hồ sẽ bị xử phạt hành chính, phải đền bù thiệt hại do hồ gây ra và thậm chí bị xử lý hình sự. 
	Quy trình nêu trên khá rõ ràng, nhưng vẫn có những ý kiến rằng xả lũ đập thủy điện làm tăng lũ. Vậy hãy làm một thí nghiệm đơn giản để xem thủy điện có làm tăng lũ hay không? 
	Ta lấy 1 cái chậu đang có 1 ít nước, cho một vòi nước vào đó và cho nước chảy vào chậu. Ban đầu ít nước, nước giữ trong chậu. Sau đó mực nước trong chậu tăng lên, tới lúc tràn. Đây là xả lũ. Lúc này lượng nước từ vòi vào chậu bằng lượng nước xả ra và mực nước trong chậu không đổi. Thủy điện là cái chậu đó. Cái chậu đó tích được thêm 1 ít nước, nhưng không sinh thêm ra nước để đổ ra ngoài. Nếu phía cuối sân có chỗ trũng thì rõ ràng là nước chảy qua chậu sẽ gây ngập ít hơn ở chỗ này so với nước xả trực tiếp ra sân. 
	Trong thực tế, các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy thủy điện gây ra rất nhiều hệ lụy môi trường, sinh thái và làm gia tăng xói lở bờ biển do chặn dòng bùn cát chảy ra biển thủy điện cũng có những nguy cơ gây lũ quét rất lớn nếu đập bị vỡ nhưng không có cơ sở khoa học nào để nói thủy điện làm tăng lũ. Nếu không có đập thủy điện lũ vẫn thế, thậm chí cao hơn. Đối với nhiều trường hợp, nếu có các hồ thủy điện lớn và có khả năng điều tiết lũ thì nếu không có hồ thủy điện lũ cao hơn rất nhiều. 
	Những người đã từng sống ở bãi sông Hồng đều biết rằng ngày trước sông Hồng ngập lụt hàng năm, và rất nhiều gia đình sống ở đó phải sắm một cái thuyền tôn để hàng năm dùng vào mùa lụt. Hầu như năm nào nước cũng ngập tới lưng nhà, thậm chí ngập đầu người và các gia đình đều phải sơ tán, chỉ để 1 người nằm thuyền trông nhà. Khi đó, trên đê sông Hồng có nhiều người dựng lều trú tạm qua lũ hoặc đến ở nhờ nhà họ hàng. Từ khi có đập thủy điên Hòa Bình thì hầu như không còn lũ. Đôi khi mưa lớn, đập Hòa Bình phải xả để tránh lũ nhưng chỉ tạo lũ rất nhỏ, tác hại không đáng kể. 
	Có người nói rằng xây đập thủy điện sẽ gây phá rừng. Ta hãy đánh giá xem tác hại của việc phá rừng lòng hồ tới lũ lụt như thế nào thông qua giải thích như dưới đây. 
	Thông thường, tùy vào điều kiện đất (trước đó có mưa hay không mà đất có bị ướt hay không), đất, hang hốc và lá, cành cây, thảm cỏ, lá mục trên mặt đất chỉ giữ được một lượng nước không lớn. Rất khó tính toán chính xác lượng nước này nhưng theo kinh nghiệm của người viết bài này, lượng nước đó nhỏ hơn 50mm. Tuy nhiên, để so sánh, ta hãy cho rằng rừng có thể giữ được một lượng nước cực kỳ lớn, khoảng chừng 20 cm hoặc 200 mm nước. Vậy nước còn lại sẽ chảy về xuôi gây lụt. Nếu lượng mưa là 700 mm thì lượng chảy về xuôi là 500 mm. Mặt khác, như đã nêu trên, mực nước đón lũ trong hồ thấp hơn mực nước xả lũ it nhất tới 4m. Vậy mặt hồ chứa ít nhất được 4m nước và mặt đất chứa được tối đa 0,2m nước. Nhiều hồ lớn, như thủy điện A Vương, chứa được 14 m nước. Như vậy phá rừng lòng hồ có làm gia tăng lũ lụt không? Tất nhiên là không! 
	Tờ thông tin (Fact Sheet) của Liên minh quốc tế các tổ chức nghiên cứu rừng (IUFRO) mà tôi đính kèm với bài này cho thấy họ kết luận rõ ràng rằng “Rừng có thể giảm thiểu lũ lụt nhỏ và cục bộ nhưng dường như không tác động đến các trận lũ cực đoan hoặc lũ lụt trên quy mô lưu vực lớn. Một ngoại lệ có thể xảy ra là khả năng của rừng tại khu vực bị ngập lũ trong việc giảm lũ hạ lưu do độ nhám thủy lực làm chậm và làm mất đồng bộ dòng chảy lũ”.
  
	  
	Cần chú ý rằng đối với các trận mưa lớn, kéo dài trên diện rộng, lũ xảy ra khi rừng đã no nước. Khi đó, tác dụng của rừng trong việc giảm lũ chủ yếu là cản trở dòng chảy chứ không phải là giữ thêm nước. Khi đó, tác động điều tiết lũ của rừng sẽ nhỏ hơn nhiều. 
	Tuy vậy, cần khẳng định lại là rừng là một hệ sinh thái cực kỳ quan trọng vì nó có những chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, giúp bảo vệ đất, bảo vệ và phục hồi đa dạng sinh học, điều tiết nguồn nước và cung cấp cho ta nhiều dịch vụ hệ sinh thái khác. Vì vậy, bảo vệ và khôi phục rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên, là một yêu cầu cấp thiết của quốc gia. 
	Với các bằng chứng nêu trên, có thể thấy các đập thủy điện đúng là tác động môi trường cực lớn, nhưng không làm tăng rủi ro lũ lụt. 
	Báo cáo của châu Âu mà tôi dẫn ở trên cũng cho thấy các hồ chứa chỉ có khả năng giảm lũ, lụt nhưng không có khả năng loại trừ hoàn toàn lũ, lụt. Nếu mưa lớn, hồ chứa không đủ sức điều tiết thì lũ lụt vẫn xảy ra. Hơn nữa, nếu hồ chứa không được xây dựng đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, có khả năng đập bị vỡ và gây ra thảm họa khôn lường. 
	Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh để đảm bảo vận hành một cách an toàn và hiệu quả các hồ chứa. Tuy vậy, các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp trung ương và địa phương phải nỗ lực tổ chức thực hiện, đảm bảo các đập thủy điện được thiết kế và xây dựng phù hợp, an toàn các đập và hồ được kiểm tra, bảo dưỡng thường xuyên và có quy trình vận hành được các cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định để đảm bảo an toàn và hiệu quả như các mục tiêu thiết kế đề ra để góp phần giảm thiểu lũ lụt và tác hại của lũ lụt, cũng như ngăn ngừa sự cố môi trường do vỡ đập. 
	Nếu quản lý tốt thì phần diện tích rừng bị phá để xây thủy điện chỉ là lòng hồ và một phần rừng bị phá để làm đường sá và các công trình phục vụ thủy điện như nhà quản lý, biến áp, đường sá cũng như có thể yêu cầu bố trí quỹ đất để tái định cư. Phần rừng thứ hai (trừ đường sá sẽ nói ở phần sau và quỹ đất để tái định cư) nói chung rất nhỏ so với phần rừng ở lòng hồ. Ngoài ra, việc san đồi núi tạo các mặt bằng xây dựng có thể làm gia tăng mức độ bất ổn định của các khối đất đá, làm gia tăng khả năng trượt lở đất và gây những thiệt hại về người và của. Tuy nhiên, các quy định gần đây cho thấy các hồ thủy điện nhỏ xâm phạm rừng tự nhiên sẽ không được cấp phép và sau khi hoàn thành công trình thủy điện, chủ đầu tư thủy điện phải trồng lại một diện tích rừng đúng bằng diện tích rừng bị phá. Ngoài ra, hiện nay các nhà máy thủy điện đang đóng góp một lượng kinh phí rất lớn, phí dịch vụ môi trường rừng, để phục vụ bảo vệ và khôi phục rừng, nhất là rừng tự nhiên. Hơn nữa, cần nhấn mạnh rằng hiện nay phát triển hệ thống hạ tầng giao thông cần được thực hiện ở các vùng núi cao để phục vụ xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế, nâng cao mức sống người dân và phát triển kinh tế - xã hội như vậy việc xây dựng đường sá của các thủy điện có thể coi một phần là đóng góp phát triển kinh tế - xã hội của các vùng cao, xa xôi, hẻo lánh. 
	Với những tác động xấu của thủy điện, cần nghiên cứu đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực của việc xây dựng thủy điện và hạ tầng thủy điện để có các biện pháp quản lý phù hợp. 
	Một điều rất quan trọng cần phải nhấn mạnh về thủy điện nhỏ là năng lượng gió và mặt trời rất không ổn định và cần nguồn để ổn định lưới. Thủy điện nhỏ với đặc tính cần rất ít thời gian khởi động, giúp ổn định hệ thống điện với năng lượng sạch rất hiệu quả. Thủy điện nhỏ nếu thiết kế và xây dựng tốt, có cửa xả bùn cát đáy thì gây tác động môi trường rất ít. Đó cũng là lý do mà nhiều nước phát triển (như Na Uy với trên 95% tổng nguồn năng lượng quốc gia là thủy điện) xây dựng rất nhiều thủy điện nhỏ. Hầu như các nước trên thế giới đều coi thủy điện là một dạng năng lượng sạch, rất ít phát thải khí nhà kính và giúp nâng cao năng lực sử dụng năng lượng sạch, giúp đạt mục tiêu trung hòa carbon và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu là nguyên nhân gây ra những trận mưa cực lớn, gây lũ lụt diện rộng như đang xảy ra hiện nay. 
	Một thí dụ về một nước phát triển nhưng vẫn có nhiều người chết do vỡ đê, sạt lở đất, lũ quét là Nhật Bản. Nhật Bản là một nước đã xây dựng được những con đê, những sườn núi xây bê tông cực kỳ hiện đại để chặn lở đất cũng như một hệ thống hạ tầng cứu hộ mà ít quốc gia trên thế giới có được. Tuy vậy, hàng năm Nhật vẫn có khá nhiều người chết vì sạt lở núi, vỡ đê, lũ lụt và lũ quét, chứng tỏ sức tàn phá của lũ kinh khủng ra sao. Thí dụ, cơn bão Hagibis quét qua Nhật Bản vào tháng 10 năm 2019 làm chết 10 người do lũ lụt và sạt lở đất. Đặc biệt, trận mưa tháng 7 năm 2018 ở Nhật đã làm chết 225 người, mất tích 13 người (https://en.wikipedia.org/wiki/2018_Japan_floods) cũng do lũ lụt và sạt lở đất. 
	Do những tác động môi trường của thủy điện, tôi không ủng hộ thủy điện và nếu được chọn thì tôi sẽ theo làm theo cách của một số quốc gia, phá thủy điện cũ đi, hạn chế hay không xây thêm thủy điện mới và chỉ phát triển nhiệt điện và các dạng năng lượng khác. Tuy nhiên, đặt điều đó ra với Việt Nam rất khó khăn. Phát triển kinh tế mà giảm tiêu thụ điện là một chuyện chỉ có trong tưởng tượng. Ở Việt Nam hiện nay, do biến đổi khí hậu, ngay cả các gia đinh có điều kiện ỏ nông thôn cũng dùng điều hòa nhiệt độ vào mùa hè. Hơn nữa, kinh tế càng phát triển thì càng cần nhiều điện hơn nên năng lượng càng ngày càng thiếu. Thiếu điện sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng quốc gia và không thể thực hiện xóa đói giảm nghèo và điều đó cũng có nghĩa là bảo vệ và phục hồi rừng sẽ khó khăn hơn. Do vậy, dù thế nào ta vẫn phải tiếp tục phát triển năng lượng. Vấn đề chỉ là phát triển sao cho hiệu quả và gây ít tác động tới môi trường, kinh tế - xã hội nhất. 
	PGS.TS. Vũ Thanh Ca 
	Khoa Môi trường, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội. |